IX. KINH NGƯỜI KOSALA THỨ NHẤT (Paṭhamakosalasutta)

41 (A. V. 59)

29. Này các Tỷ-kheo, xa rộng như thế nào là nước Kāsi Kosala, xa rộng như thế nào là sự trị vì của Vua Pasenadi nước Kosala, trong phạm vi như vậy, Vua Pasenadi nước Kosala được xem là tối thượng. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Vua Pasenadi, nước Kosala có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong [vấn đề] ấy; do nhàm chán trong [vấn đề] ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, xa cho đến mặt trăng, mặt trời di chuyển, xoay chuyển (bhanti), chói sáng các phương, cho đến như vậy là ngàn thế giới. Trong ngàn thế giới ấy, có một ngàn mặt trăng, có một ngàn mặt trời, có một ngàn vua núi Sineru, có một ngàn cõi Diêm-phù-đề, một ngàn Tây Ngưu-hóa châu, một ngàn Bắc Cu-lô châu, một ngàn Đông Thắng-thần châu, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn Đại vương, một ngàn Tứ Đại Thiên Vương, một ngàn Tam Thập Tam thiên, một ngàn Dạ-ma thiên, một ngàn Đâu-suất thiên, một ngàn Hóa Lạc thiên, một ngàn Tha Hóa Tự Tại thiên, một ngàn Phạm thiên giới. Này các Tỷ-kheo, xa rộng cho đến một ngàn thế giới, Đại Phạm thiên ở đấy được xem là tối thượng. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Đại Phạm thiên có sự đổi khác, có sự biến hoại.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong [Đại Phạm thiên] ấy, do nhàm chán trong [Đại Phạm thiên] ấy, từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có một thời, đến thời ấy, thế giới này chuyển hoại, trong khi thế giới chuyển hoại, này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình phần lớn sanh qua cõi Quang Âm (Ābhassara) thiên. Ở tại đấy, chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này các Tỷ-kheo, trong khi thế giới chuyển hoại, các Quang Âm thiên được xem là tối thượng. Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với chư Quang Âm thiên, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong [cõi Quang Âm thiên] ấy; do nhàm chán trong [cõi Quang Âm thiên] ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có mười thiền án xứ này. Thế nào là mười? Một người tưởng tri thiền án đất, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng. Một người tưởng tri thiền án nước... Một người tưởng tri thiền án lửa...Một người tưởng tri thiền án gió... Một người tưởng tri thiền án xanh... Một người tưởng tri thiền án vàng... Một người tưởng tri thiền án đỏ... Một người tưởng tri thiền án trắng... Một người tưởng tri thiền án hư không... Một người tưởng tri thiền án thức, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.

Này các Tỷ-kheo, có mười thiền án xứ này.

Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong mười thiền án xứ này, tức là thiền án thức. Có người tưởng tri phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại.

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong ấy; do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ42 này. Thế nào là tám? Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp xấu.

Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ nhất.

Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ hai.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ ba.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ tư.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh; như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh; như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta thấy, ta biết.” Đó là thắng xứ thứ năm.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng; như bông kaṇikāra màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng; như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ sáu.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ; như bông bandhujīvaka màu đỏ... như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ bảy.

Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng; như sao mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng; như lụa Ba-lanại cả hai mặt láng trơn màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Đó là thắng xứ thứ tám.

Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ này.

Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong tám thắng xứ này, tức là có người quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau: “Ta biết, ta thấy.” Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này. Thế nào là bốn? Con đường khổ thắng tri chậm; con đường khổ thắng tri mau; con đường lạc thắng tri chậm; con đường lạc thắng tri mau.

Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này.

Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn con đường này, tức là con đường lạc thắng tri mau. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh thực hành như vậy. Đối với các chúng sanh thực hành như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này. Thế nào là bốn? Có người tưởng tri có hạn lượng; có người tưởng tri đại hành; có người tưởng tri vô lượng; có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Không có sự vật gì.” Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này.

Điều này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn tưởng này, tức là có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng: “Không có sự vật gì.” Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Điều này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các thành kiến của các dị học, tức là: “Nếu ta không có trong lúc ấy, thời nay đã không có của ta. Nếu ta sẽ không có, thời sẽ không có của ta.”43 Với người có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có thể chờ đợi như sau: Sự không nhàm chán này đối với hữu sẽ không có đối với người ấy. Sự nhàm chán này đối với hữu diệt sẽ không có đối với người ấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tri kiến như vậy. Đối với chúng sanh có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn... tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng.

Điều này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng, tức là sự vượt qua một cách hoàn toàn Vô sở hữu xứ, sự chứng đạt và an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Họ thuyết pháp để thắng tri cái ấy, để giác ngộ cái ấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có nói như vậy.

Này các Tỷ-kheo, đối với các chúng sanh có nói như vậy, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, còn nói gì đối với hạ liệt.

Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn... tuyên bố hiện tại Niếtbàn là mục đích tối thắng.

Điều này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng, tức là sau khi như thật biết sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của sáu xúc xứ, được giải thoát không có chấp thủ. Này các Tỷ-kheo, Ta là người đã nói như vậy, đã tuyên bố như vậy. Và một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta với điều không thật là phi hữu, trống không, nói láo, nói rằng: “Sa-môn Gotama không tuyên bố sự liễu tri các dục, không tuyên bố sự liễu tri các sắc, không tuyên bố sự liễu tri các thọ.”

Và này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố sự liễu tri các dục, Ta tuyên bố sự liễu tri các sắc, Ta tuyên bố sự liễu tri các thọ, Ta tuyên bố ngay trong hiện tại sự vô dục, tịch diệt, thanh lương, không chấp thủ Bát-niết-bàn.

Chú thích:
41 Tham chiếu: Đệ nhất đắc kinh 第一得經 (T.01. 0026.215. 0799b27).
42 Abhibhāyatana: Thắng xứ. Xem D. II. 110; M. II. 13; Dhs. 223; Expos. I. 252ff. Abhibhāyatana là thiền (jhāna) với một sức mạnh hùng hậu (abhibhū) làm khởi điểm; hay là thiền (jhāna) với một xứ (đối tượng) cần phải thắng phục.
43 AA. V. 26: No cassaṃ no ca me siyāti sace ahaṃ atīte na bhavissaṃ, etarahipi me ayaṃ attabhāvo na siyā. Na bhavissāmi na me bhavissatīti sacepi anāgate na bhavissāmi, na ca me kiñci palibodhajātaṃ bhavissati (“Nếu ta không có trong lúc ấy” nghĩa là nếu ta không có trong quá khứ, thời nay không thể nào thân này là của ta. Ta sẽ không có, nó không là của ta; nếu trong tương lai ta không có, nó sẽ không là ngăn trở gì của ta).

Tác quyền © 2023 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.

+ -