II. KINH NGHĨ VỚI DỤNG Ý (Cetanākaraṇīyasutta)3 (A. V. 2)

2. Này các Tỷ-kheo, với người có giới, có giới đầy đủ, không cần phải làm với dụng ý rằng: “Mong rằng không hối tiếc sẽ sanh khởi nơi ta.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có giới, có giới đầy đủ, không hối tiếc sanh khởi.

Này các Tỷ-kheo, với người không hối tiếc, không cần phải làm với dụng ý rằng: “Mong rằng hân hoan sẽ sanh khởi nơi ta.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷkheo, với người không hối tiếc, hân hoan sanh khởi.

Này các Tỷ-kheo, với người có hân hoan, không cần phải làm với dụng ý rằng: “Mong rằng hoan hỷ sẽ sanh khởi nơi ta.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷkheo, với người có hân hoan, hoan hỷ sanh khởi.

Này các Tỷ-kheo, với người có hoan hỷ, không cần phải làm với dụng ý rằng: “Mong rằng thân ta được khinh an.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có hoan hỷ, thân được khinh an.

Này các Tỷ-kheo, với người có thân khinh an, không cần phải làm với dụng ý rằng: “Mong rằng ta cảm thọ an lạc.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có thân khinh an, an lạc được cảm thọ.

Này các Tỷ-kheo, với người có an lạc, không cần phải làm với dụng ý:

“Mong rằng tâm ta được thiền định.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, với người có an lạc, tâm được thiền định.

Này các Tỷ-kheo, với người có thiền định, không cần phải làm với dụng ý:

“Mong rằng ta biết, ta thấy như thật.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, người có tâm thiền định, biết và thấy như thật.

Này các Tỷ-kheo, người biết và thấy như thật, không cần phải làm với dụng ý: “Mong rằng ta sẽ nhàm chán, ta sẽ ly tham.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷkheo, người biết và thấy như thật, nhàm chán và ly tham.

Này các Tỷ-kheo, người nhàm chán và ly tham không cần phải làm với dụng ý: “Mong rằng ta sẽ chứng ngộ giải thoát tri kiến.” Pháp nhĩ là vậy, này các Tỷ-kheo, người nhàm chán và ly tham, chứng ngộ giải thoát tri kiến.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, nhàm chán và ly tham có ý nghĩa giải thoát tri kiến, có lợi ích giải thoát tri kiến; như thật tri kiến có ý nghĩa nhàm chán và ly tham, có lợi ích nhàm chán và ly tham; định có ý nghĩa như thật tri kiến, có lợi ích như thật tri kiến; an lạc có ý nghĩa định, có lợi ích định; khinh an có ý nghĩa an lạc, có lợi ích an lạc; hỷ có ý nghĩa khinh an, có lợi ích khinh an; hân hoan có ý nghĩa hỷ, có lợi ích hỷ; không hối tiếc có ý nghĩa hân hoan, có lợi ích hân hoan; các thiện giới có ý nghĩa không hối tiếc, có lợi ích không hối tiếc.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, các pháp khiến cho các pháp [khác] tăng thịnh;4 các pháp khiến các pháp [khác] viên mãn, đưa từ bờ bên này qua bờ bên kia.

Chú thích:
3 Tham chiếu: Bất tư kinh 不思經 (T.01. 0026.43. 0485b19).
4 Dhammā dhamme abhisandenti,... paripūrenti. Xem D. I. 73.

Tác quyền © 2023 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.

+ -