X. KINH ĀNANDA THỨ HAI (Dutiyaānandasutta)51 (A. V. 76)
40. – Bạch Thế Tôn, người ta nói: “Tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp”. Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là Tăng hòa hợp? – Ở đây, này Ānanda, các Tỷ-kheo thuyết phi pháp là phi pháp; thuyết pháp là pháp; thuyết phi luật là phi luật; thuyết luật là luật; thuyết điều Như Lai không nói, không thuyết là điều Như Lai không nói, không thuyết; thuyết điều Như Lai có nói, có thuyết là điều Như Lai có nói, có thuyết; thuyết điều Như Lai không thường sở hành là điều Như Lai không thường sở hành; thuyết điều Như Lai thường sở hành là điều Như Lai thường sở hành; thuyết điều Như Lai không có chế đặt là điều Như Lai không có chế đặt; thuyết điều Như Lai có chế đặt là điều Như Lai có chế đặt. Với mười sự này, các Tỷ-kheo không phá hoại, các Tỷ-kheo không chia rẽ, các Tỷ-kheo không hành bất cộng Yết-ma, các Tỷkheo không tuyên đọc Giới bổn (Pātimokkha) khác biệt. Cho đến như vậy, này Ānanda, là Tăng chúng được hòa hợp.
– Bạch Thế Tôn, với chúng Tăng bị phá, làm cho hòa hợp lại, đem đến kết quả gì?
– Này Ānanda, đem đến Phạm công đức.
– Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm công đức? – Này Ānanda, trong một kiếp, được sống hoan hỷ ở thiên giới.
Sống an lạc là người, Làm hòa hợp chúng Tăng.
Sống an lạc là người, Giúp chúng Tăng hòa hợp, Ưa thích sự hòa hợp, An trú trên Chánh pháp.
Không bị tước đoạt mất, An ổn các khổ ách, Ai khiến cho chúng Tăng, Được sống trong hòa hợp, Trong một kiếp, người ấy, Sống hoan hỷ thiên giới.
Chú thích:
51 Bản tiếng Anh của PTS viết thành 2 kinh (39, 40) riêng biệt – Harmony in the Order (b) nghĩa là Hòa hợp Tăng (b), và Fruits of Causing Harmony in the Order nghĩa là Quả của hòa hợp Tăng.
Tác quyền © 2023 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.