I. KINH SOṆA (Soṇasutta)84 (A. III. 374)
55. Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú tại Rājagaha (Vương Xá), Gijjhakūṭa (núi Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Tôn giả Soṇa trú ở Rājagaha, tại rừng Sīta. Rồi Tôn giả Soṇa,85 trong khi độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Những ai là đệ tử Thế Tôn, sống tinh cần tinh tấn, ta là một trong những vị ấy. Nhưng ta còn chấp thủ, tâm chưa giải thoát khỏi các lậu hoặc. Gia đình ta có tài sản, ta có thể hưởng thọ tài sản ấy và làm các công đức. Vậy ta hãy từ bỏ học pháp, hoàn tục, thọ hưởng tài sản và làm các công đức.” Rồi Thế Tôn, với tâm của mình biết được tâm của Tôn giả Soṇa, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất từ Gijjhakūṭa, hiện ra trước mặt Tôn giả Soṇa, ở rừng Sīta. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Soṇa đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Soṇa đang ngồi một bên:
– Này Soṇa, có phải trong khi ông độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: “Những ai là đệ tử Thế Tôn, sống tinh cần tinh tấn, ta là một trong những vị ấy. Nhưng ta còn chấp thủ, tâm chưa giải thoát các lậu hoặc. Gia đình ta có tài sản, ta có thể hưởng thọ tài sản ấy và làm các công đức. Vậy ta hãy từ bỏ học pháp, hoàn tục, thọ hưởng tài sản và làm các công đức”? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Ông nghĩ thế nào, này Soṇa? Có phải thuở trước, khi còn là gia chủ, ông giỏi đánh đàn tỳ-bà (vīṇā) có dây? – Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
– Ông nghĩ thế nào, này Soṇa, khi những sợi dây đàn tỳ-bà của ông quá căng, trong khi ấy, đàn tỳ-bà của ông có phát âm hay sử dụng được không? – Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Ông nghĩ thế nào, này Soṇa, khi những sợi dây đàn tỳ-bà của ông quá chùng, trong khi ấy, đàn tỳ-bà của ông có phát âm hay sử dụng được không? – Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này Soṇa, khi những sợi dây đàn tỳ-bà của ông không quá căng thẳng, không quá chùng xuống, nhưng vặn đúng mức trung bình, trong khi ấy, đàn tỳ-bà của ông có phát âm hay sử dụng được không? – Thưa được, bạch Thế Tôn.
– Cũng vậy, này Soṇa, khi tinh cần tinh tấn quá căng thẳng, thời đưa đến dao động; khi tinh cần tinh tấn quá thụ động, thời đưa đến biếng nhác. Do vậy, này Soṇa, ông phải an trú tinh tấn một cách bình đẳng, thể nhập các căn một cách bình đẳng, rồi tại đấy nắm giữ tướng.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Soṇa vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn, sau khi giáo giới Tôn giả Soṇa với lời giáo giới, như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy, Thế Tôn biến mất tại rừng Sīta và hiện ra ở Gijjhakūṭa.
Rồi Tôn giả Soṇa, sau một thời gian an trú định hợp với tinh tấn, thể nhập các căn một cách bình đẳng và tại đấy nắm giữ tướng; rồi Tôn giả Soṇa sống độc cư, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì các thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, tức là Vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc gì nên làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.” Tôn giả Soṇa trở thành một vị A-la-hán. Sau khi chứng được A-la-hán, Tôn giả Soṇa suy nghĩ như sau: “Ta hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, ta sẽ nói lên ý nghĩa này với Thế Tôn.” Rồi Tôn giả Soṇa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Soṇa bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã trừ diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí, vị ấy có sáu chỗ để xu hướng: Xu hướng xuất ly, xu hướng viễn ly, xu hướng vô sân, xu hướng ái diệt, xu hướng thủ diệt, xu hướng vô si.
Bạch Thế Tôn, có thể ở đây, một số Tôn giả suy nghĩ như sau: “Có Tôn giả này hoàn toàn chỉ y cứ trên tín, có xu hướng xuất ly.” Vị Tôn giả ấy chớ có quan niệm như vậy. Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, bạch Thế Tôn, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn thấy trong mình còn gì cần làm hay còn gì cần phải làm thêm; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly.
Bạch Thế Tôn, có thể ở đây, một số Tôn giả suy nghĩ như sau: “Tôn giả này do tham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng nên hướng tâm về xu hướng viễn ly.” Tôn giả ấy chớ có quan niệm như vậy. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, không còn thấy trong mình còn gì cần làm hay còn gì cần phải làm thêm; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly.
Bạch Thế Tôn, có thể ở đây, một số Tôn giả suy nghĩ như sau: “Do đi ngược trở lại tối thắng giới cấm thủ, Tôn giả này hướng tâm đến xu hướng vô sân.” Tôn giả ấy chớ có quan niệm như vậy. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, không còn thấy trong mình còn gì cần phải làm hay còn gì cần phải làm thêm; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân... do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt... do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt... do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si.
Như vậy, với Tỷ-kheo có tâm chơn chánh giải thoát, bạch Thế Tôn, nếu nhiều sắc do mắt nhận thức đi vào trong giới vức của mắt, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng; nếu nhiều tiếng do tai nhận thức... nếu nhiều hương do mũi nhận thức... nếu nhiều vị do lưỡi nhận thức... nếu nhiều xúc do thân nhận thức... nếu nhiều pháp do ý nhận thức đi vào trong giới vức của ý, chúng không chinh phục tâm của vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng.
Ví như, bạch Thế Tôn, một hòn núi đá không có rạn nứt, không có trống bọng, một tảng đá lớn, nếu từ phương Đông mưa to gió lớn đến, không có làm rung động, rung chuyển, chuyển động mạnh núi đá ấy; nếu từ phương Tây mưa to gió lớn đến... nếu từ phương Bắc mưa to gió lớn đến... nếu từ phương Nam mưa to gió lớn đến không có làm rung động, rung chuyển, chuyển động mạnh núi đá ấy.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, với Tỷ-kheo có tâm chơn chánh giải thoát, nếu nhiều sắc do mắt nhận thức đi vào trong giới vức của mắt, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng; nếu nhiều tiếng do tai nhận thức... nếu nhiều
hương do mũi nhận thức... nếu nhiều vị do lưỡi nhận thức... nếu nhiều xúc do thân nhận thức… nếu nhiều pháp do ý nhận thức đi vào trong giới vức của ý, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng.
Với ai hướng xuất ly, Tâm xu hướng viễn ly,
Với ai hướng vô sân, Tâm xu hướng thủ diệt,
Với ai hướng ái diệt, Tâm xu hướng vô si, Có thấy xứ sanh khởi, Tâm được chánh giải thoát.
Với vị chánh giải thoát,
Vị Tỷ-kheo tâm tịnh, Không cần làm thêm gì, Không có gì phải làm.
Như hòn núi đá tảng, Gió không thể dao động.
Cũng vậy, toàn thể sắc,
Vị, tiếng, hương và xúc, Cho đến tất cả pháp, Khả ái, không khả ái, Cũng không thể dao động.
Một vị được như vậy, Tâm kiên trú, giải thoát, Thấy tánh diệt của chúng.
Chú thích:
84 Tham chiếu: Tăng. 增 (T.02. 0125.23.3. 0612a17); Sa-môn nhị thập ức kinh 沙門二十億經 (T.01.0026.123. 0611c26); Tạp. 雜 (T.02. 0099.254. 0062b22).
85 Đây là Soṇa Koḷivisa. Xem Pss. Breth. 275ff. Kinh này cũng được tìm thấy ở Vin. I. 179, 185.
Tác quyền © 2023 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.